越南农林渔业产品出口达123 亿美元

来源:广州一心一译2018-05-04 08:44:02

2018年前四个月,越南农林渔业产品出口达123 亿美元

据统计,由于2018年四月份,越南农林渔业产品出口金额达 32 亿美元, 使得今年前四个月的农林渔业产品出口总额达到了 123 亿美元,与去年同期相比增长了 11.9 %。

其中,农产品出口约为 65 亿美元,水产品出口约为 24 亿美元,林产品出口为 27 亿美元;与2017年同期相比,分别增长了 11.9% , 13% 和 7.9% 。

在农产品出口方面,从数量和金额上出口均有增长的为:大米,腰果,咖啡。具体为,大米,2018年前4个月 约达216万吨 11 亿 美元,与2017年同期相比,数量上增加了 21.7% ,金额上增加了 37.7% 。今年前三个月,大米出口均价为 501 美元/吨,与2017年同期相比增长了 15% 。 2018年前三个月,中国继续成为进口越南大米最大的市场,占据市场份额的 29.1 %, 达 41万 1600 吨, 2 亿1660万美元,与2017年同期相比,数量上减少了 21.9% , 金额上减少了 11.3% 。

其次为腰果,四个月依然维持着从数量到金额的良好出口增长。腰果四个月的出口数量约达 10万3000吨,金额 10亿4千万美元,与去年同期相比,数量上增长了 23.1% , 金额上增加了 31.9% 。美国,中国和荷兰依然是进口越南腰果最大的三个市场,占腰果出口总金额的 34.4% , 13.6% 和 13.3 %。前三个月,除了澳大利亚,越南腰果各主要出口市场均增长强烈。

对于咖啡,经过一段时间出口金额减少,此产品也有了微弱的增长。四月份,咖啡出口达 16万2千吨,金额达 3 亿 零 7 百万美元,使得前四个月出口数量达 69万1千吨,金额达 13亿美元,与去年同期相比,数量上增加了 18.1% , 金额增加了 0.4% 。

在农产品出口方面,茶叶不管是数量亦或是金额都减少的惊人,2018年前四个月,茶叶出口数量为 3万4千吨,金额为 5400万美元,与去年同期相比,数量上减少了 10.2%, 金额上减少了 3,6%。在各出口市场里面,巴基斯坦为越南最大的茶叶出口市场,与去年同期相比,今年前三个月,茶叶出口金额减少了 28,6%,数量上亦减少了 18,9%。

此外,橡胶与胡椒,出口数量增加但金额减少。具体为,前四个月,橡胶出口为32万4千吨,金额为 25亿7千万美元,与去年同期相比,数量上增加了 7,6%,但金额减少了 21,4% 。前四个月,胡椒出口为 8万8千吨,金额为 3 亿 1100万美元,与去年同期相比,数量增加了 15,5%,但金额减少了 33,2%。

随着出口金额增长,2018年四月份,农林渔业产品进口也达到了 25亿7千万美元,使得今年前四个月进口金额达 95亿美元,与去年同期相比,增长了11,7%。其中,主要农产品进口达 73亿 8千万美元,与去年同期相比,增长了11,9%。




Xuất khẩu nông lâm thủy sản 4 tháng đầu năm 2018 đạt 12,3 tỷ USD

Theo thống kế, kim ngạch xuất khẩu (XK) nông lâm thủy sản tháng 4 năm 2018 ước đạt 3,2 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch XK nông lâm thủy sản 4 tháng năm 2018 đạt 12,3 tỷ USD, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, giá trị XK các mặt hàng nông sản chính ước đạt 6,5 tỷ USD, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2017; Giá trị XK thủy sản ước đạt 2,4 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2017; giá trị XK các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 2,7 tỷ USD, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong số các mặt hàng nông sản XK, gạo, hạt điều, cà phê là những mặt hàng nông sản tăng cả về lượng và giá trị XK. Cụ thể, đối với mặt hàng gạo, 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 2,16 triệu tấn với 1,1 tỷ USD, tăng 21,7% về khối lượng và tăng 37,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Giá gạo XK bình quân 3 tháng đầu năm đạt 501 USD/tấn, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2017. Trung Quốc tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2018 với 29,1% thị phần, đạt 411.600 tấn với 216,6 triệu USD, giảm 21,9% về khối lượng và giảm 11,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.

Tiếp đến là hạt điều, 4 tháng qua vẫn duy trì sự tăng trưởng tốt trong XK cả về sản lượng và giá trị. Khối lượng hạt điều XK 4 tháng ước đạt 103.000 tấn với 1,04 tỷ USD, tăng 23,1% về khối lượng và tăng 31,9% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm thị phần lần lượt là 34,4%, 13,6% và 13,3% tổng giá trị XK hạt điều. Trong 3 tháng đầu năm, trừ Australia, tất cả các thị trường XK hạt điều chính của Việt Nam đều tăng mạnh.

Đối với mặt hàng cà phê, sau thời gian sụt giảm giá trị XK, mặt hàng này đã lấy lại được sự tăng trưởng nhẹ. Trong tháng 4, XK cà phê ước đạt 162.000 tấn với giá trị đạt 307 triệu USD, đưa khối lượng XK cà phê 4 tháng đạt 691.000 tấn với 1,3 tỷ USD, tăng 18,1% về khối lượng và tăng 0,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.

Trong số các mặt hàng nông sản XK, chè là mặt hàng có sự sụt giảm mạnh cả về lượng và giá trị. Theo đó, khối lượng XK chè 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 34 nghìn tấn và 54 triệu USD, giảm 10,2% về khối lượng và giảm 3,6% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Trong số các thị trường XK, Pakistan là thị trường XK chè lớn nhất của Việt Nam, 3 tháng đầu năm 2018, kim ngạch XK chè giảm 28,6% về khối lượng và giảm 18,9% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong khi đó, mặt hàng cao su và tiêu là các mặt hàng tăng về khối lượng nhưng giảm về giá trị XK. Cụ thể, khối lượng XK cao su 4 tháng ước đạt 324.000 tấn với 476 triệu USD, tăng 7,6% về khối lượng nhưng giảm 21,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Khối lượng tiêu XK 4 tháng ước đạt 88.000 tấn với 311 triệu USD, tăng 15,5% về khối lượng nhưng giảm 33,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.

Bên cạnh giá trị XK tăng, ước giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 4 năm 2018 đạt 2,57 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu 4 tháng đầu năm đạt 9,5 tỷ USD, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, ước tính nhập khẩu các mặt hàng nông sản chính đạt 7,38 tỷ USD, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm 2017.